Hoàng Long (tổng hợp)
Vụ kiện lần thứ hai của doanh nhân Hà Lan, Trịnh Vĩnh Bình, chống lại chính phủ Việt Nam được đệ trình tại Tòa án Trọng tài Quốc tế thuộc Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) vào đầu năm 2015. Được mô tả là “tổ chức trọng tài hàng đầu thế giới,” Tòa án ICC kể từ năm 1923 đã giúp giải quyết những khó khăn trong các tranh chấp mậu dịch và kinh doanh quốc tế để hỗ trợ thương mại và đầu tư.
Uy tín và sự phát triển của Tòa án ICC không ngừng gia tăng trong gần 100 năm hoạt động, vươn tới con số kỷ lục 966 vụ được thụ lý trong năm 2016 với sự tham gia của hơn 3000 bên từ 137 quốc gia, theo thống kê sơ bộ của ICC.
Tòa án ICC không chính thức đưa ra phán quyết trong các vụ tranh chấp nhưng có trách nhiệm chuẩn thuận và chỉ định một hội đồng trọng tài để làm việc này. Nhiệm vụ chính của ICC là thực hiện chức năng giám sát pháp lý đối với những thủ tục trọng tài và chuẩn thuận tất cả các phán quyết trọng tài.
Quy trình tố tụng tại Tòa án ICC bao gồm những bước chính sau:
Một bên muốn nhờ đến trọng tài theo Quy tắc Trọng tài ICC sẽ nộp Đơn Yêu cầu Trọng tài cho Ban Thư ký Tòa án và Ban Thư ký sẽ thông báo cho Nguyên đơn và Bị đơn về việc nhận được đơn yêu cầu và ngày nhận được đơn yêu cầu. Ngày mà Ban Thư ký nhận được đơn sẽ được coi là ngày bắt đầu tố tụng trọng tài.
Đơn yêu cầu phải bao gồm những thông tin cần thiết của các bên và đại diện của mình, mô tả bản chất và hoàn cảnh làm nảy sinh tranh chấp, yêu cầu đòi bồi thường, thỏa thuận trọng tài, điều khoản chỉ định trọng tài viên, và những thông tin khác như nơi xét xử trọng tài, luật áp dụng và ngôn ngữ trọng tài.
Một khi Ban Thư ký nhận đủ số bản Đơn yêu cầu và phí nộp đơn bắt buộc thì Ban thư ký sẽ gửi một bản Ðơn yêu cầu và các tài liệu khác đính kèm cho Bị đơn để hồi đáp.
Trong vòng 30 ngày kể từ ngày Ban Thư ký nhận được Đơn yêu cầu, Bị đơn phải nộp Bản hồi đáp và cũng có thể nộp cả đơn kiện ngược lại. Ban Thư ký có thể gia hạn thời gian cho Bị đơn hồi đáp.
Nguyên đơn phải hồi đáp bất kỳ đơn kiện ngược lại nào trong vòng 30 ngày kể từ ngày Ban Thư ký nhận được đơn kiện ngược lại. Trước khi chuyển hồ sơ cho hội đồng trọng tài, Ban Thư ký có thể gia hạn thời gian nộp bản hồi đáp cho nguyên đơn.
Mỗi một trọng tài viên phải duy trì tính vô tư và độc lập đối với các bên trong quá trình tố tụng trọng tài. Họ phải tiết lộ bằng văn bản cho Ban Thư ký bất cứ sự việc hay tình huống nào gây nên sự hoài nghi về tính độc lập và vô tư của họ trong mắt các bên.
Trong việc xác nhận hoặc chỉ định các trọng tài viên, Tòa án sẽ cứu xét quốc tịch của trọng tài viên tiềm năng, nơi cư trú và các mối quan hệ khác với các nước mà các bên và các trọng tài viên tiềm năng là công dân và khả năng của trọng tài viên tiềm năng thực hiện quá trình trọng tài theo Qui tắc ICC.
Sau khi nhận được hồ sơ từ Ban Thư ký, Hội đồng Trọng tài sẽ soạn thảo một văn bản gọi là “Bản Ðiều khoản Tham chiếu” trên cơ sở các tài liệu hoặc dưới sự trình bày của các bên bằng các văn bản giải trình của họ.
Nó bao gồm một thoả thuận được ký giữa các bên và các trọng tài viên về những vấn đề liên quan đến thông tin chi tiết về các bên, các thông báo, tóm tắt luận cứ và yêu cầu đòi bồi thường của các bên, một danh sách vấn đề phải được xác định nếu phù hợp, địa điểm trọng tài và các vấn đề tố tụng khác.
Sau khi các bên ký Điều khoản Tham chiếu, không bên nào được đưa ra những khiếu kiện mới nằm ngoài giới hạn của Điều khoản Tham chiếu, trừ phi được hội đồng trọng tài cho phép sau khi cứu xét bản chất của khiếu kiện mới, giai đoạn trọng tài và các vấn đề khác liên quan.
Hội đồng trọng tài sẽ xúc tiến trong thời gian ngắn nhất để xác lập các dữ kiện của vụ việc. Hội đồng trọng tài có thể quyết định nghe các nhân chứng, chuyên gia được các bên đưa ra hoặc bất cứ người nào.
Hội đồng trọng tài có thể quyết định vụ kiện chỉ dựa trên các văn bản mà các bên đệ nạp trừ phi bất cứ bên nào yêu cầu một phiên họp xét xử.
Khi một phiên họp được tổ chức, Tòa án Trọng tài sẽ triệu tập các bên xuất hiện trước tòa vào một ngày và địa điểm ấn định.
Trong thời gian sớm nhất có thể sau phiên họp cuối cùng liên quan đến những vấn đề được quyết định trong phán quyết, Hội đồng Trọng tài sẽ tuyên bố kết thúc quy trình tố tụng. Sau đó không văn bản hay luận cứ nào được phép đưa ra thêm, hoặc bằng chứng nào được phép trưng ra, trừ phi hội đồng trọng tài yêu cầu hoặc cho phép.
Thời hạn mà hội đồng trọng tài phải đưa ra phán quyết chung thẩm là sáu tháng. Phán quyết chung thẩm được đưa ra dựa trên quyết định của đa số trong trường hợp hội đồng trọng tài có nhiều hơn một trọng tài viên. Nếu không có đa số, phán quyết sẽ chỉ do chủ tịch hội đồng trọng tài đưa ra mà thôi.
Trước khi ký bất kỳ phán quyết nào, hội đồng trọng tài phải đệ nạp bản thảo lên Tòa án. Tòa án có thể quyết định sửa đổi về hình thức của phán quyết mà không làm ảnh hưởng tới quyền tự do quyết định của hội đồng trọng tài. Hội đồng trọng tài sẽ không được công bố phán quyết cho tới khi được Tòa án phê chuẩn hình thức của phán quyết.
Một khi phán quyết được đưa ra, Ban Thư ký sẽ thông báo cho các bên bản phán quyết được ký bởi hội đồng trọng tài, với điều kiện là mọi phí tổn của quá trình trọng tài được các bên hoặc một trong các bên thanh toán đầy đủ.
Mọi phán quyết đều sẽ mang tính ràng buộc đối với các bên. Bằng việc đưa tranh chấp ra trọng tài theo Qui tắc của ICC, các bên nhất trí thi hành bất kỳ phán quyết nào mà không có sự chậm trễ.